Bao giờ hết cảnh thừa thãi nông sản

Bao giờ hết cảnh thừa thãi nông sản

Nông sản Việt rớt giá còn vài nghìn đồng, rẻ như cho, phải đổ bỏ hay cho gia súc ăn vì thừa cung. Trong khi đầu ra thì bế tắc không phải là mới những năm gần đây. Yêu cầu đặt ra là cần có giải pháp gì để chấm dứt tình trạng thừa thãi nông sản.

Hệ số đổi mới thiết bị thấp ảnh hưởng đến việc thừa thãi nông sản

Hiện cả nước có trên 7.500 doanh nghiệp chế biến quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu. Tổng công suất đạt khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu/năm. Bên cạnh đó là các cơ sở chế biến vừa và nhỏ, hộ gia đình. Công nghiệp chế biến nông sản ngày càng thu hút nguồn lực đầu tư của xã hội. Riêng trong 3 năm qua, đã có 30 dự án chế biến nông sản quy mô công nghiệp được khởi công xây dựng với tổng vốn đầu tư khoảng 1 tỷ USD.

Tình trạng thừa thãi nông sản

Nhiều ngành hàng đã hình thành được nền tảng công nghiệp chế biến. Như rau củ có trên 150 cơ sở với tổng công suất thiết kế trên 1 triệu tấn sản phẩm/năm. Đối với lúa gạo, trên 60% sản lượng được chế biến tại gần 600 cơ sở xay xát công nghiệp. Hầu như toàn bộ sản lượng mía (khoảng 21 triệu tấn. Trừ lượng nhỏ mía thực phẩm và mía chế biến trong các lò mật thủ công. Đều được chế biến tại hơn 40 nhà máy đường công nghiệp, hàng năm sản xuất trên 1,5 triệu tấn đường.

hết cảnh thừa thãi nông sản

Lĩnh vực cà phê có 239 doanh nghiệp chế biến công nghiệp. Hàng năm thu mua hầu hết sản lượng khoảng 2 triệu tấn/năm của toàn bộ gần 700 nghìn ha cà phê. Lĩnh vực thủy sản có 636 cơ sở chế biến, xử lý hầu hết sản lượng thủy sản hàng năm trên 8 triệu tấn. Sản xuất trên 3 triệu tấn sản phẩm chế biến. Ngành chế biến gỗ có 4.500 cơ sở công nghiệp, mỗi năm tiêu thụ 40 triệu m3 gỗ…

Hệ số đổi mới thiết bị và năng lực chế biến nông sản thấp

Tuy nhiên, theo ông Bạch Quốc Khang, năng lực chế biến nông sản quy mô công nghiệp còn thấp. Trong các ngành rau quả, thịt, khối lượng đưa vào chế biến chỉ chiếm 5-10% sản lượng hàng năm. Quy mô đầu tư vào chế biến cũng chưa hợp lý, thiếu cân đối với phát triển nguyên liệu. Một số nơi quá vội đầu tư chế biến công nghiệp quy mô lớn. Hoặc chậm hình thành vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, khiến nhiều doanh nghiệp thua lỗ.

Đối với các vùng nguyên liệu phân tán thường khó thu hút đầu tư chế biến công nghiệp. Nhưng chưa quan tâm đúng mức đến phát triển chế biến quy mô vừa và nhỏ. Để mặc chúng tự phát với công nghệ lạc hậu, sản phẩm khó tiêu thụ. Ngành hàng lúa gạo tuy tổng công suất của các nhà máy chế biến lớn. Nhưng cấp độ chế biến lại thấp, chủ yếu là xay sát, đánh bóng, lau sạch. Giá trị gia tăng cao (như rau quả tươi), nhưng công nghệ chế biến lại đầu tư dè dặt, chậm chạp.

Hệ số đổi mới thiết bị của các cơ sở chế biến trong nước chỉ là 7%/năm, bằng 1/2 đến 1/3 của các nước khác. Nhiều cơ sở chế biến trên 15 năm tuổi nhưng công nghệ vẫn không được đổi mới, chi phí sản xuất cao.

Mục tiêu lọt vào top 10 thế giới và không còn tình trạng thừa thãi nông sản

Mục tiêu trong 10 năm tới

Trong Chỉ thị 25/CT-TTg ngày 4/6/2020 về một số nhiệm vụ. Giải pháp phát triển chế biến nông lâm thủy sản. Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra mục tiêu đến 2030. Việt Nam phải “đứng trong số 10 nước hàng đầu thế giới”. Là trung tâm chế biến sâu logistics của thương mại nông sản toàn cầu.

Theo nhiều chuyên gia, cần thay đổi cách tiếp cận đầu tư công nghiệp chế biến cho phù hợp với điều kiện phát triển trong giai đoạn 2020-2030. Phải tăng thêm nữa sức hút đầu tư vào công nghiệp chế biến bằng các thể chế tiến bộ và đồng bộ hơn. Cần có một chương trình khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung lực lượng chuyên gia cả nước nghiên cứu nâng cấp công nghệ chế biến và bảo quản nông sản.

Cùng với đó, phải phát triển mạnh công nghiệp chế tạo đủ sức hỗ trợ sản xuất và chế biến nông sản. Cần tập trung vào các nhóm thiết bị then chốt của dây chuyền công nghệ sơ chế và tinh chế (cung cấp năng lượng, bảo quản, sấy khô, phân loại, thanh trùng, đóng gói, điều khiển tự động…).

hết cảnh thừa thãi nông sản

Các yêu cầu đặt ra

Mô hình sơ chế, bảo quản rau, hoa, quả tươi (Packing house) qui mô tập trung năng suất: 10 – 15 tấn/ngày. Công nghệ “coating” bảo quản cam đã áp dụng cho các địa phương với qui mô trên 500 tấn. Các chế phẩm bảo quản đã ứng dụng bảo quản quy mô lớn. Quy trình công nghệ sản xuất và ứng dụng chế phẩm hấp phụ ethylen AR3 và TH4 (độ hấp phụ 10 mg/kg) trong bảo quản rau quả tươi, tăng hiệu quả bảo quản lên 20-40% so với đối chứng, giảm tỷ lệ tổn thất từ 20-25% xuống dưới 10%.

Nghiên cứu thành công qui trình công nghệ sản xuất và ứng dụng 3 loại màng composit sinh học (2 loại cho quả có múi và 1 loại cho cà chua, dưa chuột). Giá thành chế phẩm tạo ra chỉ bằng 60-70% giá thành chế phẩm nhập ngoại. Viện cũng nghiên cứu thành công quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học nấm men đối kháng Candida sake, Rhodotorula minuta (108-109CFU/g), chế phẩm vi khuẩn đối kháng Pseudomonas siringae (108-109CFU/g) để bảo quản rau quả. Kết quả sau 30-40 ngày, tỷ lệ hư hỏng dưới 5%, đạt yêu cầu về sinh an toàn thực phẩm.

Nguồn: cafef.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.